Bài báo này nghiên cứu ảnh hưởng của độ mặn và độ cứng đến độ nhớt của polyacrylamide thủy phân một phần trong đá cát có liên quan đến các mô hình và mô phỏng bơm polymer.
Bài báo này làm rõ ảnh hưởng của độ mặn và độ cứng đến độ nhớt của polyacrylamide thủy phân một phần (HPAM) trong
cát kếtvới độ thấm lớn hơn 200 md. Đối với những người mô hình hóa và mô phỏng của
tăng cường polymer, các phát hiện thử nghiệm nên có liên quan cao khi dự đoán khả năng tiêm HPAM và khởi đầu nứt cũng như liệu độ nhớt đàn hồi có quan trọng trong việc thu hồi dầu của dầu còn lại bị giữ lại trong mao mạch có hoặc không có sự hiện diện của các vết nứt.
Tổng quan tài liệu tóm tắt các tác động của nồng độ polymer, trọng lượng phân tử (Mw), tính thấm của đá, và độ bão hòa dầu lên độ nhớt của HPAM trong đá cát. Công việc thí nghiệm xem xét độ nhớt của HPAM (18 triệu–20 triệu g/mol Mw, 30% độ thủy phân) trong đá cát với tính thấm dao động từ 252 đến 838 md, độ mặn dao động từ 0.1% đến 10.5% tổng chất rắn hòa tan (TDS), và mức độ cứng dao động từ 0% đến 0.1% canxi clorua (CaCl2). Như mong đợi, độ lớn của các yếu tố kháng cự tăng lên khi nồng độ HPAM tăng nhưng giảm xuống khi độ mặn tăng.
Hệ số kháng cự tối đa trong chế độ dày cắt tương quan tốt với C[µ]/(k/ϕ)0.5. Sự phụ thuộc vào vận tốc của lưu biến học (trong đá sa thạch) hầu như không thay đổi bởi độ mặn giữa 0.1% và 5% TDS. Tại 1% TDS, sự phụ thuộc vào vận tốc của lưu biến học (trong đá sa thạch) rất yếu phụ thuộc vào nồng độ CaCl2 giữa 0% và 0.1%.
Bài báo này xem xét mối quan hệ giữa sự khởi đầu của sự dày lên do cắt và nghịch đảo của thời gian thư giãn dung dịch polymer được xác định từ dữ liệu lưu biến khối. Mức độ suy giảm cơ học hầu như không bị ảnh hưởng bởi nồng độ HPAM giữa 25 và 2.000 ppm [trong nước muối với 1% natri clorua (NaCl) và 0,05% canxi clorua (CaCl2)].
Những phát hiện này nên đơn giản hóa công việc của các nhà mô hình hóa khi dự đoán hiệu suất của việc bơm polymer.